Trào phúng là gì? Đặc điểm, một số tác giả văn học trào phúng

Thể loại trào phúng đã trở thành một phần không thể thiếu của văn hóa và xã hội. Trong bài viết này, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về trào phúng là gì, đặc điểm của nó cùng một số tác giả văn học trào phúng nổi tiếng ở Việt Nam.

Trào phúng có nghĩa là gì?

Trào phúng nghĩa là gì? Trào phúng (satire) là loại hình sáng tác văn học và cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật, trong đó các yếu tố như tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo và phản kháng những mặt tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội.

Trào phúng là một loại hình sáng tác văn học
Trào phúng là một loại hình sáng tác văn học

Đặc điểm của nghệ thuật trào phúng là gì?

Trào phúng nguyên gốc được định nghĩa là việc sử dụng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn học, trào phúng được liên kết với phạm trù mỹ học và các cung bậc hài hước, châm biếm. 

Một tác phẩm trào phúng của văn học Việt Nam
Một tác phẩm trào phúng của văn học Việt Nam

Văn học trào phúng Việt Nam bao gồm một lĩnh vực rộng lớn với các cung bậc hài khác nhau, từ truyện cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết (như Số đỏ), từ các vở hài kịch cho đến những bài thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,…

Tuy nhiên, do yêu cầu của thực tế đấu tranh xã hội, một số tác giả đã phát triển ra loại hình châm biếm, như một vũ khí sắc bén để chỉ trích và phản đối những vấn đề xã hội, chính trị hay văn hóa. Châm biếm thường mang tính sắc bén, gắt gao hơn so với trào phúng và có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho đối tượng bị chỉ trích.

Các tác giả Việt Nam nổi tiếng với văn học trào phúng 

Sau khi đã biết thơ trào phúng là gì và văn trào phúng là gì thì chúng ta hãy đến với một số tác giả Việt Nam nổi tiếng trong phong trào văn học trào phúng.

Nam Cao

Nam Cao là tác giả trào phúng nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông tập trung chủ yếu viết về hai hình tượng: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. 

Nam Cao
Nam Cao

Bằng cách sử dụng ngòi bút tài hoa của mình, Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực cuộc sống tăm tối, đày đọa bóp nghẹt con người của những người trí thức nghèo. Họ muốn vươn đến những điều thánh thiện của một người trí thức thật sự, nhưng cuộc sống hiện thực không cho phép họ làm điều đó.

Với hình tượng người nông dân nghèo, Nam Cao đã tạo ra một bức tranh xã hội Việt Nam những năm 30 – 45 đầy nghèo đói, tàn tạ và vô cùng khốc liệt. Khả năng đào sâu nội tâm nhân vật đã giúp Nam Cao vẽ nên một bức tranh chân thật về xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và phê phán cái xã hội thối nát đó. Nam Cao luôn hướng đến quan niệm nghệ thuật “vị nhân sinh”, phản đối quan niệm “vị nghệ thuật”.

Nam Cao được xem là một trong những cây bút tiên phong trong truyện ngắn của văn học Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của ông trong thời kì này bao gồm “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một bữa no”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”… Tác phẩm của Nam Cao vẫn được đọc và yêu thích cho đến ngày nay, được coi là một phần không thể thiếu của văn học trào phúng Việt Nam.

Ngô Tất Tố

Ngô Tất Tố là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán trước năm 1945, người đã chứng kiến khoảnh khắc giao thời của lịch sử Việt Nam từ chế độ phong kiến dần chuyển sang chế độ nô lệ tư bản.

Ngô Tất Tố và tác phẩm trào phúng tiêu biểu
Ngô Tất Tố và tác phẩm trào phúng tiêu biểu

“Tắt đèn” là kiệt tác văn học xuất sắc nhất của ông, một bức tranh toàn diện và chân thực về xã hội đương thời tăm tối và bế tắc. Tác phẩm này đã đưa người đọc vào những cảnh ngộ vô cùng đau khổ của kiếp nhân sinh. Nhân vật chị Dậu được khắc họa một cách tài tình, hiện lên những tâm tư thầm lắng sâu kín nhất đớn đau mà cũng thật thiêng liêng vì tình mẫu tử và tình nghĩa vợ chồng.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn sáng tác nhiều tác phẩm báo chí, trong đó có hai thiên phóng sự “Tập án gia đình” và “Việc làng”. Thiên phóng sự “Việc làng” được coi là một tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt của nông thôn Việt Nam trước năm 1945.

Nguyên Hồng

Nguyên Hồng là nhà văn tài năng sở hữu giọng văn nhẹ nhàng và truyền cảm, mang đến cho độc giả cảm giác gần gũi với cuộc sống. Tuy nhiên, trước sự biến động lớn của thời cuộc, ông cũng như bất kỳ nhà văn chân chính nào khác, đã bắt đầu chuyển hướng ngòi bút sang bức tranh hiện thực khốc liệt của thời đại đó.

Nguyên Hồng
Nguyên Hồng

Tiểu thuyết “Bỉ vỏ” được Nguyên Hồng sáng tác vào đầu năm 1937 và được coi là tác phẩm trào phúng thành công nhất của ông, giúp ông đạt được vị thế trong giới văn học. Bức chân dung chân thực và đau đớn của những thân phận con người bé nhỏ lênh đênh giữa dòng đời vô định nổi trôi là điều mà thiên tiểu thuyết “Bỉ vỏ” mang đến cho người đọc.

Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan được Tản Đà thư điếm xuất bản vào năm 1923 là một đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Ông được biết đến với những tác phẩm sắc sảo, mang tính đột phá và bất ngờ, dễ dàng bóc trần những điều giả dối mà hiện thực xã hội che đậy.

Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan

Các tác phẩm trào phúng tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan trong giai đoạn này bao gồm tiểu thuyết “Mất ví”, “Quan huyện”, “Đồng hào có ma” và “Ngựa người người ngựa”, cùng với tập truyện ngắn “Kép Tư bền” (1945). Từ tập truyện này, ông bắt đầu nổi lên như một hiện tượng và được giới văn nhân trong nước đặc biệt chú ý đến.

Nguyễn Công Hoan được coi là một trong những nhà văn tiên phong của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam. Các tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam và được đánh giá là những tác phẩm văn học có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật.

Thơ trào phúng của Tú Xương

Thơ trào phúng của Tú Xương rất đa dạng, vì nó phản ánh đời sống và xã hội một cách chân thực và hài hước. Tuy nhiên, ta có thể phân loại thành hai mảng đề tài chính.

Tú Xương
Tú Xương

Mảng đề tài đầu tiên là những vấn đề xã hội và đời sống khách quan. Tú Xương phê phán những điều không đúng đạo lý, như các vụ án phá giới, việc bọn dốt nát được làm quan, suy vi thoái trào của đạo học và nền nếp Nho giáo.

Mảng đề tài thứ hai là tinh thần trào lộng và tự giễu cợt. Tú Xương biết cách cười mình, tự đánh giá bản thân và phản ánh những mâu thuẫn trong cuộc sống. Ông tự giễu mình vì không đỗ đạt được bằng, phải ở nhà nịnh vợ, hay phải mặc áo rét trong những dịp tiếp khách.

Tuy nhiên, đằng sau những tiếng cười, ta cũng thấy sự thương cảm và những suy ngẫm sâu sắc của Tú Xương về cuộc sống và xã hội. Tú Xương phản ánh những nghịch lý và khó khăn trong cuộc sống của một nhà văn nghèo khổ, với tất cả những gì ông trải qua, ông vẫn giữ được cái nhìn sáng suốt, nhạy bén và thấu đáo về con người và xã hội.

Sử thi là gì? Phân loại, các tác phẩm sử thi kinh điển

Truyền thuyết là gì? Đặc điểm, phân loại truyền thuyết

Vừa rồi chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu trào phúng là gì, đặc điểm của thể loại này cùng một số tác giả văn học trào phúng nổi tiếng của Việt Nam. Có thể thấy trào phúng là một phong trào văn học có lịch sử và tầm ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa và xã hội. Hy vọng rằng thông qua bài viết này, bạn đã có thêm kiến thức về văn học trào phúng và hiểu được tầm quan trọng của nó trong văn hóa và xã hội.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *