Nhân duyên là gì? 12 nhân duyên trong Đạo Phật là gì?

Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến khổ đau của con người, được Đức Phật thuyết giảng đó chính là giáo lý 12 nhân duyên. Hãy cùng Palada.vn tìm hiểu thập nhị nhân duyên là gì, nhân duyên ý nghĩa là gì trong Đạo Phật để hiểu hơn về vấn đề này.

Mối nhân duyên là gì?

Để hiểu được nhân duyên nghĩa là gì thì chúng ta hãy phân tích ý nghĩa từng yếu tố cấu tạo nên nó. Nhân là nguyên nhân hay nhân tố quyết định sự sinh khởi của một sự vật, hiện tượng. Duyên là sự xúc tác hỗ trợ cho nhân sinh khởi phát.

Nhân duyên
Nhân duyên

Ví dụ như một hạt cam (chính là nhân) đem gieo trồng, bón phân, tưới nước, nhổ cỏ,… (duyên) nhận lấy kết quả là cây cam, những trái cam. Vậy nhân duyên đơn giản là khái niệm chỉ các vật nương tựa nhau mà sinh khởi, phát triển.

12 nhân duyên là gì?

Thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên) là phép tu hành của Duyên giác thừa. Phép này quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân hồi, đều là do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên họp lại gọi là sinh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, còn sự thật vốn không có cái gì sinh hay cái gì diệt cả.

12 nhân duyên
12 nhân duyên

Đi cùng khái niệm nhân duyên chính là khái niệm luân hồi. Theo Từ điển Phật học Huệ Quang thì luân hồi còn gọi là tăng sa lạc, sinh tử, sinh tử tương tục, chuyển sinh, luân chuyển, lưu chuyển. Chúng sinh tạo nghiệp chết ở kiếp này, lại sinh vào kiếp khác, cứ quay vòng như vậy mãi mãi trong ba cõi. 

Phật giáo đã phát triển sự luân hồi gắn kết với nghiệp báo và nhân quả, đồng thời chỉ ra nguyên nhân khiến chúng sinh phải luân hồi khổ đau là sự tham lam, sân hận và si mê.

12 nhân duyên trong đạo Phật là gì?

Dưới đây là mười hai nhân duyên trong đạo Phật.

Vô minh (Avijja)

Vô minh thập nhị nhân duyên là gì? Vô minh là không sáng suốt, tâm thức bị mê mờ, không hiểu biết các pháp tứ đế, nhân quả, duyên khởi,… 

Thập nhị nhân duyên
Thập nhị nhân duyên

Vì vô minh nên con người mới không tỏ ngộ được chân tâm, không nhận chân được thực chất của vạn pháp là do duyên sinh, nên không quán chiếu được lẽ vô thường, khổ đau và vô ngã của cuộc đời cũng như tự thân mình. Vì vô minh mê lầm mà gương trí tuệ bị lu mờ, chúng ta càng không rõ được nguồn gốc sinh khởi của mình từ đâu đến.

Hành (Sankhara)

Hành là nghiệp lực chuyển tải từ nơi thân, khẩu và ý. Đồng thời, hành còn được hiểu như là các tính thuộc hoạt động của tâm lý.

Thức (Vinnana)

Đức Phật giải thích ‘thức” chính là suối nguồn của kiến thức, nhưng vì có mặt vô minh và hành; nghĩa là có mặt tham, sân, si, nên những cái biết có sự phân biệt, đắm trước và đưa đến sự khổ đau cho con người. Thức làm khởi sinh danh sắc và các thành tố khác của duyên khởi, là những chủ thể của nhận thức, có mặt tại thân hành, khẩu hành và ý hành. Ngoài ra, thức trong vòng tái sinh là kết sinh thức, tâm thức thọ sinh kiếp mới.

Danh sắc (Nàma – Rùpa)

Danh là thế giới nội tâm, sắc chính thân gồm có bốn đại (gồm đất, nước, gió, lửa) và tất cả những gì do bốn đại sinh ra. Với con người, sắc là cơ thể vật chất và các cơ quan mắt, tai, mũi, lưỡi. Danh là tâm ý thể hiện qua thọ, xúc, tác ý, tưởng, tư.

Lục nhập (Chabbihàna)

Lục nhập là sự tương tác giữa sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần. Khi căn và trần tiếp xúc nhau thì thức xuất hiện, trong đó bao hàm vô minh và khổ đau.

Xúc (Phassa)

Xúc là sự giao thoa và tiếp xúc của căn, trần, thức. Xúc là sự tiếp xúc giữa chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức, nội dung nhận thức. Như vậy, xúc là sự biểu hiện của thức, vô minh, khổ đau.

Thọ (Vedàna)

Thọ là cảm giác hay các phản ứng tâm lý phát sinh ví dụ như mắt tiếp xúc với hình sắc gọi là thọ là do nhãn xúc sinh, tai nghe tiếng thì thọ là do nhĩ xúc sinh…

Nhân duyên trong đạo Phật
Nhân duyên trong đạo Phật

Có ba loại cảm thọ thường bắt gặp đó là cảm thọ hạnh phúc (thọ lạc) khiến tâm con người phát sinh lòng tham ái. Ngược lại với cảm thọ khổ đau (thọ khổ) thì con người luôn sân hận. Với cảm thọ không vui không khổ (thọ xả) chính là mầm mống nuôi dưỡng chất liệu si mê. Thế nên, thọ chính là cội nguồn của tham, sân, si và là nhân tố dẫn dắt con người trôi lăn trong sự sinh tử và khổ đau.

Ái (Tanhà)

Ái tức là sự khao khát thậm chí bám víu vào đối tượng ưa thích. Ái có ba loại: dục ái (sự tham muốn vị ngọt của hương, vị, xúc, pháp), hữu ái (mong muốn được tồn tại ở một cảnh giới tốt đẹp hơn), vô hữu ái (mong muốn không có mặt, vì thấy nhàm chán sự hiện hữu). Con người mãi rong ruổi tìm cầu, lửa dục vọng hừng hực bốc cháy khiến cho sầu khổ càng tăng. Điều này càng chứng tỏ tham ái chính là cội gốc của khổ đau.

Thủ (Upàdàna)

Thủ là sự bám víu của tâm thức vào một đối tượng. Nhân của Thủ chính là sự tham ái và vô minh. Sự bảo thủ đó khiến phát sinh ra ý thức sai lầm về ngã và tự ngã, đồng thời làm tăng sự vô minh và khổ đau.

Hữu (Bhava)

Hữu có ba loại là dục hữu (thế giới mà con người tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp trần), sắc hữu (nơi chúng sinh tham đắm sự hiện hữu và tồn tại), vô sắc hữu (thế giới con người thấy nhàm chán dục lạc và sự hiện hữu). Như vậy, hữu chính là biểu hiện của lòng tham khát ái diễn ra trong tâm thức mỗi chúng sinh.

Sinh (Jàti)

Sinh ở đây muốn nói đến sự sinh khởi nên các hiện tượng tâm lý, vật lý, tức là sự cấu thành năm uẩn hay các tri giác.

Lão tử (Jarà – marana)

Lão tử là kết quả của sinh, thể hiện qua sự suy nhược, tàn lụi, tan rã, tiêu biến. Vạn vật bị vô thường chi phối, nên khi con người già yếu thì răng long, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc dần, da nhăn,… rồi chết đi. Lão tử chính là khổ đau vì hủy diệt mọi hiện hữu duyên sinh, điều này trái với lòng tham muốn của con người.

Nhân sinh quan là gì? Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến người Việt

Cao số là gì? Cách nhận biết tướng phụ nữ cao số và hóa giải

Tính chất của mười hai nhân duyên là gì?

Tính chất của 12 nhân duyên trong đạo Phật là gì?

Tính mắt xích

Một chuỗi mắt xích từ vô minh đến lão tử tạo ra vòng dây tương tục của khổ đau. Mỗi một chi phần trong 12 chi là sự có mặt của 11 chi còn lại. Khi một chi phần sinh khởi, toàn bộ khổ đau cùng sinh khởi. Sự đoạn diệt của một chi phần cũng có nghĩa là đoạn diệt hoàn toàn 12 chi phần hay khổ đau cũng đoạn diệt, không một chi phần nào có thể sinh khởi hay là tồn tại một mình.

12 nhân duyên trong đạo Phật
12 nhân duyên trong đạo Phật

Khi vô minh, ái, thủ, tập khởi thì toàn bộ khổ đau sẽ cùng tập khởi, đây là con đường sinh tử, là tà đạo. Ngược lại, khi vô minh diệt, ái diệt hay thủ diệt thì lúc đó toàn bộ khổ đau cũng sẽ không còn, con đường đoạn tuyệt này là chính đạo, là đạt tới Niết Bàn. Như vậy, 12 chi phần duyên khởi tương tác lẫn nhau, không cái nào có trước, cái nào có sau mà tiêu chuẩn là một cụm duyên khởi.

Tính nhân quả

Trước hết chúng ta cần nói về tam thế lưỡng trùng nhân quả: nhân quá khứ (vô minh, hành), quả hiện tại (thức, lục nhập, danh sắc, xúc, thọ, ái); nhân hiện tại (thủ, hữu), quả tương lai (sinh, lão tử). Đây chính là hai cặp nhân quả khổ đế, tập đế. Vì bản chất của 12 nhân duyên là vòng tròn sinh hoá, nó luân chuyển liên tục trên cùng một tâm thức. Sự phá vỡ cấu trúc “quán hoàn diệt” làm cơ cấu của mười hai nhân duyên sẽ bị đổ vỡ, đạt được giác ngộ. Chính vì thế, cấu trúc vòng tròn này không bị phụ thuộc vào thời gian của mối tương quan nhân quả.

Tính vô thường, khổ, vô ngã

Duyên khởi nói lên sự thật vô ngã và bác bỏ tự ngã nên phủ nhận mọi câu hỏi và câu trả lời về bản chất của các pháp, về nguyên nhân đầu tiên thế giới. Với duyên khởi, các vấn đề siêu hình về nguồn gốc, tự thể của các hiện hữu đều được xem là lý luận, thuộc tư duy nhị nguyên xa rời thực tại, không đem đến lợi ích thiết thực nào. 

Từ sự thật vô ngã của các pháp, duyên khởi sẽ mở ra một hướng tư duy mới liên hệ đến các vấn đề như giáo dục, văn hóa, môi trường,… Đây được xem là các vấn đề lớn của xã hội hiện đại mà các nhà lãnh đạo hằng quan tâm. Các vấn đề này liên hệ mật thiết đến hạnh phúc cùng sự tồn tại của con người và xã hội, cần được khảo sát dưới ánh sáng duyên khởi.

Lộ trình thuận nghịch của 12 nhân duyên của con người là gì?

Việc đi theo thuận dòng hay nghịch dòng của thập nhị nhân duyên là vô cùng quan trọng quyết định con người hạnh phúc hay khổ đau.

Thuận dòng

Nếu đi thuận chiều từ vô minh đến lão tử sẽ dẫn dắt con người chìm đắm vào biển khổ đau, chìm đắm trong dục lạc trần thế, phiền não âm ỉ mãi trong tâm thức, không tìm ra lối thoát để giác ngộ và giải thoát. 

Ý nghĩa của 12 nhân duyên
Ý nghĩa của 12 nhân duyên

Nhận thức được khổ đau mang lại, con người sẽ tự tạo cho mình một đời sống an lạc, hạnh phúc theo ý muốn của mình. Để làm được điều đó thì con người phải lội ngược dòng khổ đau của 12 nhân duyên.

Nghịch chiều

Đi ngược chiều của 12 nhân duyên, chúng ta sẽ đoạn trừ khổ đau, sớm chứng được Thánh trí giải thoát. Tiêu biểu như hình ảnh thái tử Tất Đạt Đa ngồi dưới cội Bồ Đề quán nghịch chiều 12 nhân duyên.

Trên đây là chia sẻ về mười hai nhân duyên là gì và ý nghĩa 12 nhân duyên trong đạo Phật. Hi vọng bài viết đã cung cấp một số thông tin hữu ích giúp các bạn dễ tiếp cận hơn với Phật giáo. Chúc quý vị độc giả luôn an yên và tìm được cho mình hướng đi đúng đắn trong cuộc sống.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *